. Thực ra, đây không là một khái niệm mới trong giáo dục thế giới. Nhưng mới ở đây là vạch ra những vấn đề đáng quan tâm khi xây dựng một nền giáo chủ động trong hoàn cảnh trong nước.
Ngược dòng lịch sử, có nhiều hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại học, đã đi tìm những phương thức khác nhau để xây dựng một nền giáo dục tích cực, chủ động và sáng tạo (active learning, creative learning) không phải tất cả điều thành công. Đến nay, kể cả giáo dục đại học Mỹ, phương pháp giảng dạy vẫn là nóng bỏng, một trong những yếu tố nâng cao chất lượng giảng dạy.
Nhìn chung, nước ta trong những năm trước đây, ngay từ thuở nhỏ, người học phải luôn đối phó với một chương trình học nặng nề, phương pháp giảng dạy nhồi nhét lỗi thời và một cơ chế đào tạo không chủ động cho người học. Với tính đối phó tức là ta đã bị động trong vấn đề nhận thức và tư duy, cho nên không thể nào tạo ra tính sáng tạo trong học tập hay ốc tư duy phê phán trong suy nghĩ và giải quyết vấn đề. Trong giáo dục sáng tạo, sinh viên học không nô lệ vào quá trình đào tạo mà ngược lại tự học, tự tìm tòi và tự đào tạo. Do vậy, nâng cao chất lượng đào tạo không chỉ tập trung vào giảng viên hay đổi mới phương pháp giảng dạy là đủ mà nó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố quan trọng khác nữa. Trong bài viết này tác giả chỉ đề cập đến vai trò của người giảng viên là chủ đạo, tuy nhiên để nâng cao sáng tạo trong giáo dục đại học thì vai trò đối với bản thân người giảng viên là hết sức cần thiết như việc xác định các yêu cầu, ưu tiên cho bốn thành tố cơ bản của quá trình đào tạo dưới đây là rất quan trọng : mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh giá.
+ Xác định mục tiêu là rất cần thiết vì nó ảnh hưởng đến việc chọn lựa nội dung, phương pháp giảng dạy và phương thức đánh giá. Nói đến mục tiêu là nói đến kết quả cần đạt sau khi kết thúc môn học (hay chương trình học). Mục tiêu bao hàm cả về nhận thức và tình cảm, nhưng trên hết, nó có thể đo lường được. Cụ thể hơn, người học có thể đạt được gì sau khi hoàn thành môn học (hay chương trình học). Khi mục tiêu không rõ thì dẫn đến các vấn đề như sau :
- Nội dung sẽ không rõ
- Sẽ không cho thấy phần học nào là cần thiết, hiệu qủa, phải có trong chương trình đào tạo;
- Sẽ không cho thấy phương pháp giảng dạy nào phù hợp với thực tế và thực sự có chuyển tải nội dung cần thiết hay không
- Không tạo được dễ dàng để lựa chọn phương pháp đánh giá, kiểm tra và sự đánh giá công bằng chính xác.
Do đó, hai vấn đề quan trọng khi cần xác định mục tiêu là
- Phải xác định và công nhận kiến thức có liên quan mà sinh viên tích lũy trước khi vào học
- Sinh viên dựa trên mục tiêu có thể tự đánh giá quá trình tiếp thu của bản thân.
+ Nói đến nội dung giảng dạy là nói đến kiến thức thu nhận được trong quá trình đào tạo. Nó có thể dưới dạng bài giảng từ sự truyền đạt của giảng viên, tài liệu giáo trình hay từ những nguồn thông tin khác nhau mà sinh viên có thể tiếp cận được. Vai trò của giảng viên là làm thế nào giới thiệu càng nhiều nguồn thông tin càng tốt và giúp xác định những nội dung nào cần thiết đến môn học, giúp cho sinh viên đạt được các mục tiêu đã đề ra. Muốn làm được điều này, giảng viên cần xây dựng đề cương môn học với các nguồn tư liệu để tiếp cận. Đề cương phải nêu rõ các yêu cầu cần thiết để hoàn thành môn học. Trên cơ sở này, sinh viên dễ dàng xây dựng một chương trình học tập phù hợp với nhu cầu và điều kiện bản thân. Qua đó, sinh viên chủ động tìm kiếm những phương cách, nguồn lực có thể có để hoàn thành các yêu cầu của môn học. Như trên đã trình bày, nội dung môn học bao giờ cũng liên quan đến các môn học khác : phần nào đã học ở bậc trung học, phần nào cần bổ sung ở bậc đại học, phần nào học trước, phần nào học sau, phần nào phải miễn hay chuyển đổi do người học đã tích lũy từ trước. Một khó khăn ở đây là chương trình đào tạo ở nước ta chưa được đánh giá toàn diện và xem xét tính liên thông từ bậc học này đến bậc học khác, và ngay cả trong phạm vi của một trường như từ ngành/chương trình này chuyển sang ngành/chương trình khác dẫn đến thiếu tính liên thông, do đó nội dung học tập trở nên rời rạc, dẫn đến thiếu tính hệ thống. Ngoài ra, liều lượng nội dung đưa vào nhiều khi còn nặng nề do lập đi lập lại, đó là nguyên nhân không thể đo lường kiến thức thu được qua từng bậc học.
+ Phương pháp giảng dạy có ảnh hưởng và tác động nhiều đến phương pháp học tập. Nói khác đi, người học nhìn người dạy để tìm ra cách học cho chính mình. Làm thế nào qua phương pháp giảng dạy để nâng cao tính sáng tạo, tư duy phê phán và giải quyết vấn đề nơi sinh viên? Đây không phải là dễ dàng vì phương pháp hình thành qua nhiều năm.
- Điều này đặt giảng viên ở vị trí luôn cập nhật kiến thức và sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khác mình.
- Phương pháp giảng dạy phải giúp cho sinh viên xây dựng qúa trình tự đào tạo. Trong bối cảnh đó, phương pháp giảng dạy cũng cần đa dạng để có thể đáp ứng được các nhu cầu học tập khác nhau.
- Phương pháp giảng dạy phải giúp sinh viên xác định những loại thông tin, dữ liệu, kỹ năng nào cần thiết cho ngành học và ngành nghề tương lai của mình. Qua đó, sinh viên không chỉ tự trang bị những kỹ năng, kỹ thuật mới, mà còn luôn cập nhật nội dung kiến thức đã có, xây dựng thái độ và tình cảm đúng đắn với nghề nghiệp và xã hội.
- Phương pháp giảng dạy phải giúp xây dựng quan điểm học tập suốt đời, không những chỉ quan tâm đến kiến thức, kỹ năng của sinh viên mà còn là thói quen để có thể học tập suốt đời.
+ Đánh giá là nhắm vào nhiều mục đích :
- Kiểm tra kiến thức sinh viên trước khi vào học để xem xét các môn học nào được miễn.
- Đo lường kiến thức của sinh viên qua đối chiếu với các mục tiêu môn học đã đề ra.
- Thăm dò thái độ của sinh viên đối với môn học/ngành học có thay đổi không, như thế nào.
- Xem xét nội dung môn học, tài liệu học tập và qui trình đánh giá có đầy đủ và hiệu quả không.
Điều hết sức quan trọng là đánh giá phải có tính hệ thống, phải lưu trữ trong hồ sơ sinh viên cho thấy sự tiến bộ qua từng giai đoạn. Đối với môn học, đánh giá cần rãi đều khắp học kỳ (đánh giá quá trình) để có thể điều chỉnh từng lúc mục tiêu và nội dung học tập cho phù hợp với thực tế. Công cụ đánh giá phải đa dạng và kết hợp nhiều dạng khác nhau (trên lớp, ở nhà, vấn đáp, viết, trắc nghiệm, thi nhóm, công trình nghiên cứu có hướng dẫn…). Một thực tế là đánh giá thường nhằm kiểm tra trí nhớ của sinh viên và như vậy sinh viên phải đối phó bằng cách học thuộc lòng hay các bài kiểm tra thường nhấn mạnh đến kiến thức sự kiện hơn là đánh giá thường nhằm vào giải quyết vấn đề hay nâng cao tính sáng tạo. Một vấn đề khác đáng quan tâm là đánh giá thường biểu thị qua điểm số nhưng điểm số và kết quả (cuối môn học, cuối học kỳ) thường ít khách quan quan nếu không kiểm soát được quá trình đánh giá phù hợp năng lực sinh viên để phân tích điểm mạnh, điểm yếu và hơn nữa, để xem sinh viên có đồng tình với kết quá đánh giá hay không. Các năm gần đây, nhiều trường trong nước ta đã bắt đầu cho lấy thông tin từ người học về giảng viên và môn học lúc kết thúc môn học. Ở nước ngoài, việc đánh giá giảng viên đã có từ lâu và là một phần bắt buộc trong chương trình đào tạo. và việc đánh giá này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến lương bổng, tuyển dụng và đề bạt.
Như vậy để đạt được bước nâng cao chất lượng đào tạo cần rất nhiều yếu tố, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay vai trò nâng cao tính sáng tạo và chủ động của người học có được phát huy cao là thật sự cần phải có sự tham gia tích cực của người thầy trong quá trình đào tạo như đã phân tích như trên. Với cách tiếp cận như trên nếu người học nằm ngoài không tham gia vào qúa trình thì cũng sẽ là thật sự khó khăn khi chúng ta đề cập đến chất lượng đào tạo. Do đó ngoài hai đối tượng trọng tâm trên vai trò quản lý của nhà trường cũng hết sức cần thiết, nỗ lực lớn để tăng cường các yếu tố đảm bảo chất lượng, hiệu quả đào tạo. Trọng tâm năm học 2009 – 2010 của nhà trường cùng thực hiện theo yêu cầu của ngành là nâng cao hiệu quả trong quản lý đào tạo. Với hướng đi đúng và nỗ lực của nhà trường hy vọng sẽ thắng lợi mới trong mùa tốt nghiệp của trường năm nay.